1. Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học là xu thế phát triển tất yếu của nền giáo dục hiện đại
Chúng ta đang sống trong thời đại của hai cuộc cách mạng: cách mạng khoa học – kỹ thuật (CMKH-KT) và cách mạng xã hội. Những cuộc cách mạng này đang phát triển như vũ bão với nhịp độ nhanh chưa từng có trong lịch sử loài người, thúc đẩy nhiều lĩnh vực, có bước tiến mạnh mẽ và đang mở ra nhiều triển vọng lớn lao khi loài người bước vào thế kỷ XXI.
Công nghệ thông tin và truyền thông (Information and Communication Technology – ICT) là một thành tựu lớn của cuộc CMKH-KT hiện nay. Nó thâm nhập và chi phối hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ trong sản xuất, giáo dục, đào tạo và các hoạt động chính trị, xã hội khác. Trong giáo dục - đào tạo, ICT được sử dụng vào tất cả các môn học tự nhiên, kỹ thuật, xã hội và nhân văn. Hiệu quả rõ rệt là chất lựơng giáo dục tăng lên cả về mặt lý thuyết và thực hành. Vì thế, nó là chủ đề lớn được tổ chức văn hóa giáo dục thế giới UNESCO chính thức đưa ra thành chương trình hành động trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI và dự đoán “sẽ có sự thay đổi nền giáo dục một cách căn bản vào đầu thế kỷ XXI do ảnh hưởng của CNTT ”. Như vậy, ICT đã ảnh hưởng sâu sắc tới giáo dục và đào tạo, đặc biệt là trong đổi mới phương pháp DH (PPDH), đang tạo ra những thay đổi của một cuộc cách mạng giáo dục, vì nhờ có cuộc cách mạng này mà giáo dục đã có thể thực hiện được các tiêu chí mới:
Học mọi nơi (any where)
Học mọi lúc (any time)
Học suốt đời (life long)
Dạy cho mọi người (any one) và mọi trình độ tiếp thu khác nhau
Thay đổi vai trò của người dạy, người học, đổi mới cách dạy và cách học.
Ở nước ta, vấn đề ứng dụng ICT trong giáo dục, đào tạo được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, coi yêu cầu đổi mới PPDH có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều hết sức cần thiết. Các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã thể hiện rõ điều này, như: Nghị quyết CP của Chính phủ về chương trình quốc gia đưa công nghệ thông tin (CNTT) vào giáo dục đào tạo (1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, Luật giáo dục (1998) và Luật giáo dục sửa đổi (2005), Nghị quyết 81 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo, Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010,…
Trong Nghị quyết Trung ương II, khoá VIII Đảng và Nhà nước ta khẳng định, phải “đổi mới phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS,…”[1].
Chỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2001 – 1005 nêu rõ “CNTT là phương tiện để tiến tới một xã hội hóa học tập”, nhưng “giáo dục và đào tạo phải đóng vai trò quan trọng bậc nhất thúc đẩy sự phát triển của CNTT ”.
Trong “Chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo đến năm 2010” của Bộ Giáo dục – Đào tạo đã yêu cầu ngành giáo dục phải từng bước phát triển giáo dục dựa trên CNTT, vì “CNTT và đa phương tiện sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong quản lý hệ thống giáo dục, trong chuyển tải nội dung chương trình đến người học, thúc đẩy cuộc cách mạng về phương pháp dạy và học”.
Đặc biệt, công văn số 9584/BGDĐT-CNTT ngày 7/9/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo gửi cho các sở giáo dục và đào tạo, các trường đại học, cao đẳng sư phạm và các khoa sư phạm, yêu cầu phải nhanh chóng “đẩy mạnh việc dạy môn Tin học và ứng dụng CNTT trong giáo dục, góp phần đổi mới phương pháp dạy-học và quản lí giáo dục”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động “lấy năm học 2008 – 2009 sẽ là năm Công nghệ thông tin” [2].
2. Những điều kiện cần thiết để đưa ICT vào đổi mới phương pháp dạy-học lịch sử ở trường phổ thông.
Dạy học lịch sử (DHLS) là một hoạt động mang tính đặc thù, một quá trình sư phạm phức tạp, học sinh (HS) không thể từ “trực quan sinh động” (nhìn quá khứ), mà phải đi từ cung cấp sự kiện để tạo biểu tượng lịch sử, hình thành khái niệm, rồi mới nêu được quy luật, rút ra bài học kinh nghiệm và vận dụng vào thực tiễn. Việc cung cấp sự kiện lịch sử cho HS càng cụ thể, giàu hình ảnh bao nhiêu thì các em càng hứng thú học tập và hiểu biết lịch sử bấy nhiêu. Công việc này đối với GV (GV) thật không đơn giản, nhưng ngày nay nhờ vào ICT, GV có thể dễ dàng giúp HS đi “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng”, hiểu đúng bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử, từ đó có tư tưởng tình cảm đúng đắn và phát triển toàn diện ở các em. ICT có tác dụng tích cực góp phần vào đổi mới PPDH bộ môn hiện nay. Bởi vì, theo các chuyên gia giáo dục, nếu cứ áp dụng PPDH truyền thống thì 90% tri thức của HS được tiếp nhận qua tai, 10% qua mắt sau một thời gian ngắn sẽ rơi vào tâm trạng mệt mỏi, giảm sự chú ý[1], nhưng nếu các em vừa được nghe, vừa được nhìn thông qua hình ảnh, kết hợp với các hoạt động (tức là huy động cùng một lúc nhiều giác quan) thì kết quả ghi nhớ kiến thức của HS đạt hơn 90%[2]. Tuy nhiên, để nhanh chóng đưa ICT vào đổi mới PP dạy-học LS ở trường phổ thông, chúng ta phải có sự chuẩn bị:
a. Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại.
Để góp phần đưa ICT vào đổi mới PPDH nói chung, DHLS nói riêng, trước tiên các trường phổ thông cần phải xây dựng phòng học đa năng kiên cố với những trang thiết bị nghe-nhìn hiện đại tối thiểu, như: máy vi tính nối mạng Internet và kết nối với máy chiếu (Projector), đầu VCD, loa phóng thanh, màn hình. Ngoài phòng học đa năng, mỗi trường phổ thông cũng cần được trang bị thêm một máy Projector, màn hình, loa phóng thanh “di động”, tạo điều kiện cho GV của trường thực hiện những “giờ dạy lưu động” ở các phòng học khác khi muốn ứng dụng ICT vào đổi mới PPDH. Ở những nơi có điều kiện, nhà trường có thể khuyến khích hoặc hỗ trợ GV một phần kinh phí mua máy tính cá nhân để thuận tiện khi soạn bài giảng điện tử (E-Learning) ở nhà.
b. Đào tạo con người
Chúng ta biết rằng, con người là yếu tố quyết định của mọi sự thành công. Trong DH, CNTT chỉ như một dụng cụ trực quan, một phương tiện DH hiện đại giúp GV truyền tải kiến thức đến người học và HS là người lĩnh hội tri thức ấy một cách chủ động, tích cực. Như vậy, chính GV với PPDH và nghiệp vụ sư phạm của mình mới quyết định hiệu quả sử dụng CNTT, GV là người làm chủ công nghệ chứ không phải công nghệ điều khiển GV. Tuy nhiên, nếu GV không có kiến thức về công nghệ này, không nắm vững những vấn đề về PP và PP luận thì không thể thực hiện được. Do đó, Sở Giáo dục – Đào tạo các tỉnh và các trường phổ thông bằng nhiều hình thức khác nhau cần phải nhanh chóng đào tạo được một đội ngũ GV cho từng môn học (Lịch sử, Vật lí, Hóa học,… biết sử dụng thành thạo máy tính, biết cách ứng dụng ICT vào đổi mới PPDH và làm chủ công nghệ hiện đại. Sở Giáo dục – Đào tạo các tỉnh nên có phương án hỗ trợ một phần kinh phí cho các trường phổ thông, hoặc phối kết hợp với các khoa của trường Đại học Sư phạm Hà Nội mở lớp bồi dưỡng, tập huấn, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho GV bộ môn về sử dụng ICT vào DH. Thực tiễn cho thấy, ở một số tỉnh đã và đang làm tốt hoạt động này như, Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Bắc Giang,… Song, khi cử GV tham dự lớp học, tập huấn và bồi dưỡng ICT vào DH, các trường phổ thông cần lưu ý đến đối tượng là GV trẻ - những thầy cô sẽ đi tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại này. Mặt khác, ngoài việc đào tạo một đội ngũ GV biết sử dụng thành thạo máy tính, ứng dụng tốt ICT vào DH bộ môn, mỗi trường phổ thông nên có một GV phụ trách phòng máy và thiết bị để hỗ trợ, giúp đỡ các GV trong quá trình chuẩn bị và tổ chức DH khi cần thiết.
c. Triển khai thực hiện
Sau khi đã đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại và đào tạo đội ngũ GV làm chủ công nghệ hiện đại, việc còn lại của GV các trường phổ thông là ứng dụng công nghệ đó – những thành tựu của khoa học-kĩ thuật vào DH, từng bước góp phần đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng DH bộ môn. Để đẩy mạnh việc ứng dụng ICT vào DH, các trường phổ thông nên khuyến khích và đưa ra những yêu cầu bắt buộc đối với GV. Ví như, nhà trường yêu cầu mỗi tháng GV phải có ít nhất một tiết dạy bằng bài giảng điện tử tại phòng học đa năng, có sự tham gia dự giờ của tổ chuyên môn để làm cơ sở cho phong trào thi đua của GV toàn trường.
Tại nhiều trường phổ thông, nhất là những trường ở các thành phố, trung tâm văn hóa lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Huế,..), GV khá say sưa và thường xuyên sử dụng ICT trong DH. Song, ở nhiều trường phổ thông tại các tỉnh thành khác, việc ứng dụng công nghệ mới này vào DH bộ môn đôi khi mang tính hình thức, mua vui, hoặc chỉ sử dụng vào các dịp thi GV dạy giỏi, khi có đoàn thanh tra trên Sở về dự giờ,… Vì vậy, công suất và hiệu quả sử dụng ICT chưa được tốt.
Theo chúng tôi, một trong những lí do khiến việc ứng dụng ICT vào DHLS chưa mang lại hiệu quả vì GV còn quá thờ ơ với hoạt động này, chưa thực sự nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa của việc ứng dụng ICT vào đổi mới PPDH bộ môn. Sự khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn tư liệu điện tử phục vụ cho soạn bài giảng trên máy cũng là một vấn đề lớn đối với GV. Vì vậy, GV cần phải nhận thức đúng đắn về vai trò của ICT trong DH nói chung, DHLS nói riêng; phải có niềm đam mê, yêu thích và tích cực sưu tầm, khai thác các hình ảnh, tư liệu lịch sử trên mạng Internet (tranh ảnh, bản đồ, phim tư liệu,…), xây dựng một “thư viện điện tử” để thuận tiện cho thiết kế bài giảng khi cần.
3. Một số yêu cầu về phương pháp luận và lí luận DH khi ứng dụng ICT vào đổi mới phương pháp dạy-học lịch sử ở trường phổ thông.
Xuất phát từ những yêu cầu, đòi hỏi của nền giáo dục, đào tạo Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay và tình hình thực tiễn ứng dụng ICT trong DHLS ở trường phổ thông, chúng ta không cho phép duy trì lối dạy cũ “thầy đọc, trò chép” một cách thụ động, máy móc. Thay vào đó, việc DH phải thể hiện sự tiếp cận, mối quan hệ giữa khoa học - kỹ thuật với giáo dục và thực tiễn, biết ứng dụng những thành tựu của khoa học-kĩ thuật có hiệu quả trong giảng dạy. GV cần phải tiến hành đồng thời “một cuộc cách mạng” về đổi mới tư duy, nội dung và PPDH, cùng với việc sử dụng CNTT. Để việc ứng dụng công nghệ này thực sự có hiệu quả, GV cần nắm vững một số yêu cầu cơ bản về phương pháp luận và lý luận DH sau:
Thứ nhất, việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, trong đó có ICT là góp phần nâng cao chất lượng DH, thực hiện tốt hơn nữa mục tiêu giáo dục, đào tạo tuyệt nhiên không thể rơi vào quan điểm “trong nghiên cứu và DH, chỉ có kỹ thuật quyết định việc nhận thức khách quan, chứ không hề có quan điểm duy vật hay duy tâm, biện chứng hay siêu hình”. Bởi vì, trên thực tế quan điểm cho rằng “kỹ thuật là tất cả” đã thể hiện quan điểm tư sản về khoa học và giáo dục, “ngấm ngầm” chống lại quan điểm mácxít - Lênin nít. Không ai phủ nhận việc ứng dụng những thành tựu của khoa học kĩ thuật, trong đó có ICT sẽ góp phần thực hiện “hoạt động hóa” quá trình dạy-học, nhưng “kĩ thuật không thể quyết định”. Chính GV với PPDH và nghiệp vụ sư phạm của mình mới quyết định hiệu quả sử dụng CNTT, GV là người làm chủ công nghệ chứ không phải công nghệ điều khiển GV.
Thứ hai, việc sử dụng ICT, trong đó có phần mềm PowerPoint vào giáo dục nói chung không thể thay thế cho các PPDH truyền thống đã được xác định trước đó, mà nó chỉ góp phần tích cực để đổi mới PPDH. Việc kết hợp sử dụng các PP, biện pháp sư phạm, các phương tiện, hình thức DH cũng như sử dụng ICT để giáo dục, DH là yêu cầu quan trọng, nhưng phải tùy thuộc vào mục tiêu đào tạo, nội dung, PPDH cũng như đặc trưng của bộ môn. Trong DH, việc sử dụng ICT thực ra nó chỉ là một loại phương tiện trực quan, không thể thay thế cho các “phương pháp truyền thống” về trình bày miệng, sử dụng các loại tài liệu, trao đổi – đàm thoại, đồ dùng trực quan, hoạt động ngoại khóa, tham quan,… Điều này cũng giống như việc sử dụng trắc nghiệm khách quan trong khâu kiểm tra, đánh giá kết quả DH là cần thiết, nhưng vẫn không thể loại bỏ hình thức câu hỏi tự luận. Bởi vì, trắc nghiệm khách quan cũng chỉ là một bộ phận của kiểm tra, đánh giá kết quả DH, được tiến hành phối hợp cân đối với các loại hình kiểm tra, đánh giá khác. Cũng như vậy, liều lượng, mức độ, nội dung, PP sử dụng ICT phải xuất phát từ mục tiêu đào tạo, nội dung, đặc trưng và PPDH cụ thể của từng bộ môn.
Cuối cùng, việc sử dụng ICT nói chung, khai thác và sử dụng phần mềm PowerPoint vào DH ở trường phổ thông nói riêng là thể hiện sự áp dụng những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, kết quả của trí tuệ, sự sáng tạo của con người. Vì vậy, việc sử dụng này không chỉ để minh họa, “mua vui”, giải trí cho HS, mà phải góp phần vào “phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS” trong học tập bộ môn. Ở đây, GV không nên chỉ biết sử dụng thành thạo ICT vào DHLS, mà còn hướng dẫn cho HS biết sử dụng chúng, nhằm “hoạt động hóa” quá trình học tập, “xã hội hóa” quá trình ứng dụng ICT . Ví như, trước mỗi tiết dạy, GV ra bài tập yêu cầu HS lên mạng Internet để tìm kiếm, khai thác thông tin, tư liệu liên quan đến chủ đề sẽ học trên lớp, khi đến tiết học thì báo cáo cho thầy cô, các bạn nghe để cùng trao đổi, thảo luận. Việc làm này vừa mang ý nghĩa khoa học, vừa mang ý nghĩa thực tiễn cao. Để hoạt động này mang lại hiệu quả và đỡ mất thời gian ngồi trên mạng của sinh viên, GV cần cung cấp cho các em một số địa chỉ tìm kiếm thông dụng.
* *
*
Sự phát triển nhanh chóng của ICT trong những năm gần đây đã ảnh hưởng sâu sắc tới nền giáo dục, đặc biệt là trong đổi mới PPDH. Nhận thức được tầm quan trọng này, trong những gần đây, nhiều Sở Giáo dục – Đào tạo, các trường phổ thông đã xây dựng, phát triển các giải pháp chiến lược về xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo nhân lực phục vụ cho việc ứng dụng những thành tựu của ICT vào DH. Hiện nay, việc đưa ICT vào giảng dạy của GV ở các trường phổ thông không còn là mới mẻ như 10 năm về trước. Tuy nhiên, việc ứng dụng những thành tựu của công nghệ này trong công tác quản lí, giảng dạy vẫn đang ở bước đi đầu, cần phải đẩy mạnh hơn. Các Sở Giáo dục và Đào tạo, trường phổ thông cần quan tâm nhiều hơn nữa đến việc xây dựng một hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật, trang thiết bị hiện đại, đáp ứng đủ mọi điều kiện cho đội ngũ GV và học sinh ứng dụng ICT vào dạy - học. Đồng thời, việc ứng dụng ICT vào DH nói chung muốn đạt kết quả tốt cần thiết phải kết hợp hài hoà với các phương pháp truyền thống, phù hợp với nội dung, điều kiện cụ thể. Bản thân từng giáo viên cũng phải tự trang bị, bồi dưỡng và nâng cao trình độ ICT để dạy tốt bộ môn./.
N.M.H
Một số tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Mạnh Hưởng – Sử dụng CNTT và truyền thông vào DH lịch sử ở trường phổ thông. Tạp chí Giáo dục, số 133 (3/2006).
2. Nguyễn Mạnh Hưởng – Thiết kế bài giảng Cách mạng tháng Tám 1945 với sự hỗ trợ của phần mềm Microsoft PowerPoint. Tạp chí Giáo dục, số 154 (1/2007).
3. Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi - Phương pháp DH lịch sử ở trường phổ thông. NXB ĐHSP Hà Nội, tập 1- 2, 2002.
4. Phan Ngọc Liên. Lịch sử và giáo dục lịch sử. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2003.
5. Quách Tuấn Ngọc – Đổi mới phương pháp DH bằng CNTT - xu thế của thời đại. Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên ngành, số 8, 1999.
6. The training of trainers program 2002. Block one course materials. The Viet Nam – Australia training project the VAT project.
(*) Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Hội nghị lần thứ II BCH TƯ khóa VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr 41.
[2] Xem các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục – Đào tạo về chương trình quốc gia đưa công nghệ thông tin (CNTT) vào giáo dục đào tạo.
[1] Phan Ngọc Liên. LS và giáo dục LS. Nxb Chính trị Quốc gia. HN, 2003, tr 455.
[2] The training of trainers program 2002. Block one course materials. The Viet Nam – Australia training project the VAT project, page 11.